Tài liệu về nhu cầu dinh dưỡng của thỏ dùng để hướng dẫn trong thực tiễn chăn nuôi hiện nay còn nhiều hạn chế, do các nghiên cứu về dinh dưỡng thỏ còn ít, cũng như sự biến động về nhu cầu dưỡng chất của các giống thỏ theo mục đích sản xuất.
1. Nhu cầu năng lượng: Một cách chung nhất, nhu cầu về năng lượng đối với gia súc thường thay đổi theo tỉ lệ nghịch với tầm vóc của cơ thể. Nếu thú càng nhỏ con thì nhu cầu năng lượng trên một đơn vị thể trọng càng cao. Thỏ là loài động vật có vú có nhu cầu năng lượng tương đối cao, so với trâu bò nó có nhu cầu năng lượng gấp 3 lần. Nhu cầu năng lượng gồm có 3 phần.
a. Nhu cầu cơ bản: Nhu cầu này có thể xác định trong tình trạng thỏ không sản xuất và hoạt động trong 24 giờ theo nghiên cứu của Lee (1939) ở các loại thỏ có trọng lượng khác nhau.
b. Nhu cầu duy trì: Được xác định là nhu cầu cơ bản và cộng thêm với một số năng lượng cần thiết như ăn uống, tiêu hóa và những hoạt động sinh lý khác nhưng không sản xuất. Nhu cầu này có thể tính bằng cách nhân đôi nhu cầu cơ bản, nên kết quả như sau:
c. Nhu cầu sản xuất: Nhu cầu sản xuất của thỏ thường bao gồm: Nhu cầu sinh sản, nhu cầu sản xuất sữa và nhu cầu tăng trưởng.
- Nhu cầu sinh sản: Nhu cầu này cho cả thỏ đực có thể phối con cái và nhu cầu thỏ cái có mang. Một số nghiên cứu đề nghị là nhu cầu của thỏ đực giống và thỏ cái có mang chiếm khoảng từ 5 - 10% nhu cầu duy trì. Thỏ cái có thai trong khoảng 30 ngày thì đẻ. Số ngày có mang có thể tăng hay giảm chút ít tùy theo giống thỏ hay số lượng thai được mang trong cơ thể. Trong 20 ngày đầu trọng lượng bào thai phát triển chậm, sau đó trọng lượng thai tăng rất nhanh trong 10 ngày cuối. Điều này sẽ cho thấy là trọng lượng sơ sinh của thỏ tùy thuộc rất nhiều vào dưỡng chất cung cấp cho thỏ mẹ trong giai đoạn này, và lúc này nhu cầu mang thai có thể tăng lên khoảng 30 - 40 % nhu cầu duy trì.
- Nhu cầu sản xuất sữa: nhu cầu này tùy thuộc rất nhiều vào khẩu phần thức ăn. Lượng sữa trong 5 ngày đầu có thể thay đổi khoảng 25g/ ngày/ con cái. Mục đích trong giai đoạn này là đảm bảo cho thỏ con tăng trọng tốt và thỏ mẹ không bị gầy ốm do nuôi con. Sản lượng sữa sản xuất cao khoảng 35g/ ngày/ con cái thường từ ngày 12 đến ngày 25. Lượng sữa sẽ giảm nhanh sau khi sanh 30 ngày và chu kỳ cho sữa trung bình của thỏ cái là 45 ngày. Chất lượng của khẩu phần của thỏ sẽ ảnh hưởng lớn đến không những ở sản lượng mà còn cho chất lượng sữa.
2. Nhu cầu đạm và amino acid
a. Nhu cầu đạm: Lượng đạm trong khẩu phần được xem là quan trọng vì nó đảm bảo các hoạt động duy trì và sản xuất của thỏ, tuy nhiên các nghiên cứu trên thỏ ngoại nhập thuần và thỏ lai ở Việt Nam có những kết quả khá biến động, một số các tài liệu cho biết: Thỏ cái có thai 3kg có nhu cầu hàng ngày là 20g DP (đạm tiêu hóa). Thỏ nuôi con cần 30 - 35 g DP mỗi ngày. Thỏ đực sinh sản hoặc thỏ cái khô có nhu cầu 10 - 12 g DP/ ngày.
b. Nhu cầu amino acid: Trong nhiều năm, chất lượng protein không được quan tâm trong dinh dưỡng thỏ bởi vì có hiện tượng ăn phân. Tuy nhiên, những báo cáo gần đây cho thấy phân mềm chỉ chiếm khoảng 14% tổng DM ăn vào và khoảng 17 - 18% protein ăn vào. Vì vậy, mặc dù phân mềm được giới thiệu là nguồn đạm cho thỏ có phẩm chất tốt về amino acid giới hạn, nhưng số lượng của chúng không đủ đảm bảo nhu cầu trong khẩu phần vì vậy cần bổ sung nguồn amino acid giới hạn này (Santoma et al., 1987). Các nhà nghiên cứu cho biết ở thỏ tăng trưởng cần trong thức ăn chứa 10 trong số 21 amino acid thiết yếu để tạo nên protein của thỏ gồm có arginine, histidine, leusine, isoleusine, lysine, phenylalanine với tyrocine, methionine, cystine, threonine, tryptophane và valine (Lebas et al., 1986). Nhu cầu về các loại amino acid ở thỏ sinh sản cũng cần bằng tương tự như là ở thỏ thịt (Lebas et al., 1986).
3. Nhu cầu chất xơ của thỏ: Việc xác định mức độ xơ tối ưu trong khẩu phần thỏ là một trong những mục tiêu chính của việc nghiên cứu về dinh dưỡng thỏ. Thỏ được cho ăn khẩu phần xơ thấp thì có những biểu hiện xáo trộn trong hệ thống tiêu hóa với những biểu hiện như tiêu chảy kèm với tỉ lệ chết cao. Điều này có thể giải thích là do khẩu phần ăn có mức độ xơ thấp sẽ kéo dài thời gian lưu trữ của thức ăn trong hệ thống tiêu hóa (Hoover & Heitmann, 1972). Hơn thế nữa, ở khẩu phần xơ thấp hơn 12% sự thay thế chất chứa trong manh tràng sẽ thấp hơn. Tình trạng này dẫn đến hai trường hợp: Sự lên men không mong muốn trong manh tràng và sự gia tăng của những vi sinh vật gây bệnh (Carabano et al., 1988). Từ đặc điểm sinh lý tiêu hóa của thỏ ta thấy thức ăn xơ thô vừa là chất chứa đầy dạ dày và manh tràng vừa có tác dụng chống đói vừa có tác dụng sinh lý tiêu hóa bình thường. Chất xơ như là nguồn cung cấp năng lượng, tác động tốt đến quá trình lên men của vi khuẩn manh tràng. Nhiều kết quả nghiên cứu cho thấy: nếu cho thỏ ăn thức ăn nghèo xơ (dưới 8%) thì thỏ sẽ bị tiêu chảy. Nhu cầu tối thiểu về xơ thô là 12% trong khẩu phần ăn của thỏ. Hàm lượng xơ phù hợp nhất là 13 - 15%. Thức ăn này sẽ kích thích sự hoạt động của đường tiêu hóa và nhu động ruột bình thường. Nhưng nếu tăng tỉ lệ xơ thô trên 16% thì sẽ gây cản trở tăng trọng và khả năng sử dụng thức ăn của thỏ. Riêng thỏ giống trưởng thành có thể sử dụng được khẩu phần ăn chứa thành phần xơ thô cao hơn (16 - 18%). Cung cấp xơ thô có thể theo dạng cỏ, lá xanh, khô hoặc dạng bột nghiền nhỏ 2 - 5mm trộn vào thức ăn hỗn hợp để đóng viên hoặc dạng bột (Nguyễn Quang Sức & Đinh Văn Bình, 2000). Ở ĐBSCL các nghiên cứu cho thấy ở mức 38 - 42% xơ trung tính (NDF, neutro detergent fiber) trong khẩu phần gồm cỏ lông Para và rau lang, và lượng 25 - 35g xơ trung tính/ ngày/ con đối với thỏ đang tăng trưởng có trọng lượng 1,3kg - 1,5kg là thích hợp cho sự tiêu hóa và tăng trưởng (Nguyễn Thị Kim Đông và Nguyễn Trường Giang, 2009).
4. Nhu cầu khoáng và vitamin: Các tài liệu khuyến cáo về nhu cầu khoáng và vitamin hiện nay có những biến động và khác biệt nhau. Những nghiên cứu về nhu cầu canxi và phospho cho thấy ở thỏ tăng trưởng cần ít hơn rất nhiều so với thỏ cái nuôi con. Thỏ cái nuôi con chuyển 7 - 8g khoáng vào sữa một ngày. Bất kỳ sự mất cân đối về Na, K, Cl có thể gây ra viêm thận và sinh khó. Bón rau cỏ có hàm lượng cao K khi cho thỏ ăn có thể gây ra những rủi ro (Lebas et al., 1986). Trong chăn nuôi thỏ rất cần thiết phải cung cấp vitamin đặc biệt là thỏ nuôi nhốt và có năng suất cao. Đối với thỏ sinh sản cần thiết phải được cung cấp vitamin A và E, nếu đầy đủ thì tỉ lệ đẻ có thể đạt 70-80%, nếu thiếu tỉ lệ này có thể là 40 - 50% và tỉ lệ nuôi sống là 30 - 40%. Cỏ xanh, cà rốt, bí đỏ và lúa lên mọng là những nguồn cung cấp vitamin rất tốt cho thỏ. Thỏ có thể tự tổng hợp vitamin nhóm B trong hệ tiêu hóa. Người ta cũng có thể cung cấp vitamin tổng hợp dạng bột cho thỏ vào trong thức ăn hỗn hợp.
5. Nhu cầu về nước uống: Thỏ nuôi trong chuồng sử dụng hai nguồn nước từ nước trong cỏ xanh và nước uống cung cấp. Nhu cầu nước phụ thuộc vào nhiệt độ không khí và hàm lượng vật chất khô trong thức ăn hàng ngày. Nước cần để tiêu hóa thức ăn và các hoạt động sống của cơ thể thỏ. Mùa hè thỏ ăn nhiều thức ăn thô thì cần lượng nước gấp 3 lần so với nhu cầu bình thường. Thỏ có tầm vóc trung bình thì cần 0,4 - 0,6 lít/ ngày (Sanford, 1996). Nhu cầu nước phụ thuộc vào lứa tuổi và các thời kỳ sản xuất khác nhau: Thỏ vỗ béo; hậu bị giống: 0,2 - 0,5 lit/ ngày; Thỏ mang thai: 0,6 - 0,8 lit/ ngày; Khi tiết sữa tối đa: 0,8 - 1,5 lit/ ngày
Nếu cho thức ăn thô xanh, củ quả nhiều có bổ sung thức ăn tinh thì lượng nước thực vật đáp ứng được 60 - 80% nhu cầu nước tổng số. Nhưng vẫn cần cho uống nước, thỏ thiếu nước nguy hiểm hơn thiếu thức ăn. Thỏ nhịn khát đến ngày thứ hai là bỏ ăn. Trong thực tế chăn nuôi nếu cho thỏ lai ăn các loại rau củ có nhiều nước người ta không cho thỏ uống nước thỏ vẫn sống bình thường, tuy nhiên nên cho thỏ có nước uống sẵn sàng thì thỏ sẽ tăng trọng và sức khỏe tốt hơn.
Ths. Nguyễn Thị Ánh Tuyết
