Giới thiệu
Các lựa chọn thay thế kháng sinh, cả hai kháng sinh như là chất kích thích tăng trưởng và trị liệu, thường được xem là hiệu quả nhưng đắt tiền, vì vậy chúng chỉ được áp dụng theo yêu cầu rõ ràng từ người tiêu dùng hoặc quản trị. Tuy nhiên, về mặt lợi tức đầu tư những lựa chọn thay thế kháng sinh tốt mang lại nhiều hơn so với việc quản lý bệnh. Ở động vật khỏe mạnh, kháng sinh không mang lại giá trị nào, nhưng các lựa chọn thay thế vẫn mang lại nhiều lợi ích.
Bài tóm tắt lược dịch trong tạp chí poultryworld.net do Kirwan biên soạn (12/2019) với tựa đề “Fewer antibiotics make more economic sense” viết về những lựa chọn thay thế kháng sinh tốt sẽ thành công khi nhìn vào nhiều yếu tố tài chính trang trại so với việc sử dụng kháng sinh. Thay thế kháng sinh làm cho sức khỏe tốt hơn có tác động tích cực đến việc chuyển hóa thức ăn và tính đồng đều của vật nuôi. Thay thế nhiều loại kháng sinh hiện nay còn có ý nghĩa kinh tế và kháng kháng sinh là mối quan tâm thực sự trong tất cả các hoạt động chăn nuôi. Những phần tóm tắt của bài viết được trinh bày sau đây.
Tại sao phải thay thế kháng sinh?
Trong lĩnh vực đề kháng lại kháng sinh việc đánh giá các lựa chọn thay thế cho kháng sinh không phải là một lựa chọn mà là bắt buộc. Để kiểm tra sự khác biệt giữa cách tiếp cận thông thường và phương pháp thay thế bằng kháng sinh, các ví dụ đã được kiểm tra từ thực địa, nơi mà kháng sinh bị thất bại tại trại nuôi heo con. Ở heo con, E.coli là một phần của hệ vi sinh vật khỏe mạnh, thậm chí là men vi sinh probiotic tiềm năng. Nghiên cứu thực địa được thực hiện tại một trang trại trải qua đợt bộc phát dịch nghiêm trọng của E. coli K88 với bệnh tiêu chảy, dẫn đến những lứa đẻ không đồng nhất và tỷ lệ chết sớm. Một trang trại ở Ý có 150 heo nái. Heo con được cai sữa lúc 28 ngày. Heo con được cho ăn trước giai đoạn khở đầu từ ngày thứ 10 đến khi cai sữa, khởi đầu 1 đến 12 kg thể trọng, khởi đầu 2 đến 25 kg thể trọng. Vào tháng Năm, ổ dịch bộc phát đã ảnh hưởng đến heo con giữa cai sữa và 15 kg thể trọng. Điều này dẫn đến tỷ lệ tử vong cao (11%) trong ít giờ. Những con sống sót tiếp tục bị ảnh hưởng bởi sự thất bại để phát triển mạnh và những ổ đẻ không đồng nhất.
Cách tiếp cận thông thường: Từ tháng 5 đến tháng 12, trang trại này đã áp dụng các phương pháp điều trị tái phát bằng colistin/doxycycline trong thức ăn hoặc colistin trong nước uống. Điều trị bổ sung ngoài tiêu hóa với enrofloxacin đã được sử dụng. Mặc dù sử dụng rộng rãi kháng sinh, tình hình không được cải thiện. Việc điều trị được thực hiện trước bằng ba loại kháng sinh riêng biệt để đánh giá mức độ kháng thuốc trong quần thể E. coli. Kết quả cho thấy độ nhạy cảm tổng thể tốt đối với các kháng sinh, xem Bảng 1. Tất cả các kháng sinh chỉ cho thấy mức độ kháng thuốc thấp, do lịch sử sử dụng thường xuyên các loại thuốc kháng khuẩn khác nhau. Ngoài ra, người ta đã xác nhận rằng các heo nái có xét nghiệm ELISA dương tính với hội chứng rối loạn sinh sản và hô hấp ở heo (PRRS) sau 75/90 ngày.
Bảng 1: Ví dụ về kháng sinh đồ.
|
| Kết quả |
Aminosidin | (AN) | Nhạy cảm |
Amoxicillin and clavulanic acid | (AMC 30) | Nhạy cảm |
Ampicillin | (AMP10) | Nhạy cảm |
Apramicin | (APR 30) | Nhạy cảm |
Cefquinome | (CEQ10) | Nhạy cảm |
Enrofloxacin | (ENR5) | Nhạy cảm |
Florfenicol | (FFC) | Nhạy cảm |
Flumequine | (UB80) | Nhạy cảm |
Gentamicin | (CN10) | Nhạy cảm |
Kanamycin | (K30) | Nhạy cảm |
Neomycin | (N30) | Trung gian |
Spectinomycin | (SH100) | Nhạy cảm |
Trimethoprim-sulfamethoxazole | (SXT25) | Nhạy cảm |
Giải pháp tập trung thay thế kháng sinh: Sau đây vào tháng 1 chỉ điều trị ngoài tiêu hóa (bằng đường tiêm) cho toàn bộ các lô bằng enrofloxacin được tiếp tục khi cần thiết. Thức ăn của heo con được điều chỉnh công thức để chứa dạng Ca-formate và acid citric (formyl) giải phóng chậm ở mức 4kg/tấn và tảo beta-(1,3)-glucan (aleta) để giúp hỗ trợ hệ miễn dịch đang phát triển ở mức 0,2 kg/tấn. Ngoài ra các acid hữu cơ đã được thêm vào nước uống; pH được điều chỉnh đến 3,5-3,7. Các kết quả từ hai phương pháp điều trị khác nhau có thể được thấy trong Bảng 2.
Bảng 2: So sánh trực tiếp việc quản lý E. coli thông thường và thay thế.
*: Những kháng sinh được cấp (tiêm, thức ăn và nước uống), mg mỗi kg thể trọng.
| Tháng 5 đến tháng 12 | Năm tiếp theo tháng 1 đến tháng 5 |
Số heo con | 1.517 | 822 |
Tuổi bắt đầu, ngày | 37,38 | 34,00 |
Tuổi kết thúc, ngày | 78,38 | 72,46 |
Thể trọng đấu, kg | 8,5 | 8,0 |
Giai đoạn thử nghiệm trên nhóm heo con, ngày | 41,0 | 38.5 |
THể trọng cuối, kg | 29,96 | 31,36 |
Tăng trọng hàng ngày trung bình, kg | 0,52 | 0,61 |
Tỷ lệ chết, % | 11,4 | 6,69 |
Kháng sinh/kg tăng trọng*, mg | 266,96 | 8,17 |
Những lý do để sử dụng kháng sinh/kháng khuẩn
Thuốc kháng sinh hoặc các chất khác có tác dụng kháng khuẩn như oxide kẽm được áp dụng thường xuyên trong chăn nuôi. Các thuốc kháng sinh sẽ được sử dụng cho chăn nuôi trong tương lai có thể dự đoán được. Chúng tiếp tục được sử dụng vì lý do kinh tế được thấy, thay vì đối xử với một nhóm động vật vì nguy cơ tử vong. Sự bùng phát nghiêm trọng của E. coli cho thấy việc sử dụng rộng rãi các kháng sinh (kháng sinh 267 mg mỗi kg tang trọng), không thể làm giảm triệu chứng hoặc giảm tỷ lệ chết. Ngay cả những heo con còn sống năng suất cũng bị ảnh hưởng, tác động đến việc tăng thể trọng.
Chi phí cho thuốc kháng sinh: Tuy nhiên, chi phí thấp được thấy của thuốc kháng sinh chỉ bao gồm một phần chi phí thực tế. Đường cấp nước phải được làm sạch trước và sau khi áp dụng kháng sinh. Ứng dụng đòi hỏi thời gian lao động. Ngay cả sau khi áp dụng, kháng sinh vẫn gây ra các tốn kém. Điều đã được biết rõ là sau khi điều trị bằng kháng sinh, hệ vi sinh vật đường ruột thường bị xáo trộn nghiêm trọng, dẫn đến tiêu chảy và rối loạn sinh lý nói chung. Mặc dù những tác động này thường dừng lại mà không cần điều trị thêm ở người, nhưng trong chăn nuôi, chúng chắc chắn gây tổn thất về hiệu quả thức ăn, một yếu tố kinh tế quan trọng.
Chi phí cho các lựa chọn thay thế: Nhiều biện pháp lựa chọn được thiết lập tốt để thay thế các kháng sinh làm chất kích thích tăng trưởng (AGPs) cũng có thể được sử dụng trong các chương trình để làm giảm thấp nhu cầu điều trị bằng kháng sinh. Trong nghiên cứu hiện nay sự điều biến hệ vi sinh vật đường tiêu hóa (formyl, acid hóa nước uống) và hỗ trợ hệ miễn dịch (aleta), cùng với việc sử dụng kháng sinh thông minh đã thành công. Do đó, lượng kháng sinh được áp dụng cho vật nuôi có thể giảm đáng kể (8 mg kháng sinh cho mỗi kg tăng thể trọng.
Chi phí hay lợi tức đầu tư?
Lợi tức đầu tư dễ dàng được tính toán cho kháng sinh; chi phí điều trị so với lợi nhuận dự kiến do giảm tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ chết. Điều trị trong chăn nuôi hoặc đàn gia súc khỏe mạnh mang lại lợi tức đầu tư âm (ROI) vì chi phí cho việc điều trị không mang lại lợi ích thêm. Nếu được chọn lựa tốt và áp dụng đúng cách, trong nhiều trường hợp, một sự thay thế kháng sinh mang lại ROI ít nhất là 1, do đó chi phí ứng dụng cao hơn so với kháng sinh là không đáng lo ngại. Ví dụ trên đây là cực đoan nhất, nếu như không có sự thay thế nào hoạt động, điều này sẽ báo hiệu cho sự kết thúc của trại thương phẩm trong vòng vài tuần vì những lý do kinh tế.
Các lựa chọn thay thế kháng sinh tốt rõ ràng thành công khi nhìn vào nhiều yếu tố tài chính của trang trại so với việc sử dụng kháng sinh. Do đó, thay vì chỉ nhìn vào những gì vẫn được cho phép, việc sử dụng thay thế thường xuyên là điều hợp lý. Điều này được chứng minh là cũng làm cho kháng sinh hiệu quả hơn vì bằng chứng cho thấy rõ việc giảm sử dụng kháng sinh có thể khôi phục tính nhạy cảm ngay cả ở những vi khuẩn kháng thuốc trước đây. Bên cạnh đó, sức khỏe tốt hơn có tác động tích cực đến việc chuyển hóa thức ăn và tính đồng đều giữa tất cả các loài, những kháng sinh trị liệu gì đó không thể đem lại mong đợi. Thời điểm để thay thế nhiều loại kháng sinh hiện nay, nó có ý nghĩa kinh tế và kháng kháng sinh là mối quan tâm thực sự trong tất cả các hoạt động chăn nuôi.
PGS Bùi Xuân Mến, Trung tâm RD Vemedim.
Tài liệu tham khảo
Kirwan, S. 2019. Fewer antibiotics make more economic sense.