CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG VỎ TRỨNG

CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHẤT LƯỢNG VỎ TRỨNG

Giới thiệu

Người ta đã nói nhiều về sự phát triển di truyền thành công vượt bậc ở gà thịt trong 50 - 60 vừa qua. Tuy nhiên, trong một thời gian tương tự, gà mái đẻ trứng thương phẩm đã được chuyển đổi từ một mái đẻ theo mùa thành con lai hiện đại có năng suất cao mà chúng ta có ngày nay. Điều này có liên quan đến một sự thay đổi từ những gia cầm sản xuất hai hoặc ba ổ đẻ một năm, hướng đến những mái đẻ có khả năng sản xuất 500 trứng trong vòng đời 2 năm.

Bài tóm tắt lược dịch trong biomin.net do Andrew Robertson biên soạn (2/2019) với tiêu đề “Factors affecting eggshell quality” viết về những tiến bộ di truyền đã nâng cao năng suất của đàn giống và mái đẻ thương phẩm sản xuất trứng làm thực phẩm cho nhu cầu ngày càng tăng của thị trường. Bên cạnh việc nuôi dưỡng và quản trị để đáp ứng nhu cầu cho mái đẻ hình thành trứng, đặc biệt là canxi, các chất dinh dưỡng và yếu tố khác cũng đóng vai trò quan trong cho quá trình sản xuất trứng hoàn hảo và chất lượng ở gia cầm mái đẻ. Các phần của bài tóm tắt được trình bày dưới đây.

Những yếu tố cần thiết cho sự hình thành trứng

Bài viết này sẽ không thảo luận về các nguyên nhân liên quan đến bệnh làm giảm chất lượng vỏ trứng, vì những nguyên nhân này cần được quản lý thông qua một chương trình tiêm chủng trong giai đoạn nuôi hậu bị. Thay vào đó, nó sẽ tập trung vào các khía cạnh dinh dưỡng và quản lý. Đầu tiên, chúng ta phải hiểu quá trình hình thành trứng, đòi hỏi kiến thức về nhu cầu canxi của gia cầm trong suốt 24 giờ.

Trong thời gian này, đã rút ngắn đáng kể chu kỳ không tự nhiên của gia cầm, giảm từ 26-27 giờ đến gần 24. Điều này đã giảm thời gian hình thành trứng, chủ yếu là do giảm thời gian cần thiết để vỏ trứng hình thành. Điều này có nghĩa là cần phải chăm sóc nhiều hơn cho gia cầm ngày nay để đảm bảo rằng các yêu cầu của nó đối với việc sản xuất vỏ trứng được đáp ứng; mặt khác, các vấn đề liên quan đến chất lượng vỏ trứng có thể gây ra thiệt hại kinh tế từ số lượng trứng vỏ mỏng và bị nứt vỡ tăng lên.

Hình minh họa vỏ trứng có thành phần chủ yếu là canxi

 

Chu trình sản xuất trứng

Hiểu về sự hình thành trứng giúp chúng ta hiểu cách tốt nhất để cung cấp canxi cho gà đang đẻ. Nhu cầu canxi sẽ phụ thuộc vào thời gian trong ngày và thời gian đẻ trứng. Nhiều mái đẻ trứng nâu đẻ vào sáng sớm và lòng đỏ kế tiếp được phóng thích ra khỏi buồng trứng trong vòng 10 phút sau khi đẻ trứng. Tiếp theo là sự tiết ra lòng trắng (albumen) xung quanh lòng đỏ trong ống dẫn trứng (đoạn magnum), sau đó là sự phát triển của màng vỏ trứng ở đoạn isthmus. Quá trình này mất khoảng 5-6 giờ, sau đó trứng đi vào tử cung nơi mà albumen được ngậm nước (thủy hợp) trong 4-5 giờ tiếp theo. Trong 12 giờ tiếp theo, lớp vỏ được hình thành thông qua sự tích tụ của một lớp đồng đều cacbonat canxi. Sự hình thành sắc tố và sản xuất lớp phủ cuticle (sáp) cuối cùng xảy ra trong các giai đoạn cuối ở tử cung, ngay trước khi đẻ trứng và chu kỳ này sẽ bắt đầu lại.

Giai đoạn chính

1 – Đẻ trứng đẻ và sự phóng thích lòng đỏ tiếp theo từ buồng trứng 2 - Bắt đầu hình thành vỏ trứng 3 - Kết thúc quá trình hình thành vỏ trứng 4 – Hình thành sắc tố và tiết ra lớp cuticle cuối cùng

Các giai đoạn hình thành trứng

Hình 1: Các giai đoạn hình thành trứng

 

Hình 1 cho thấy các giai đoạn hình thành trứng trong suốt thời gian 24 giờ và mô hình chiếu sáng có vẻ phù hợp cho gia cầm. Điều này minh họa cách hình thành vỏ trứng hầu hết xảy ra trong những giờ tắt sáng (trong tối) khi gia cầm không thể tiếp cận với thức ăn.

Vỏ trứng được hình thành từ carbonat canxi (CaCO₃), và lớp này sẽ chuyển hóa và chuyên chở nhiều lần đến tổng trọng lượng bộ xương của mái để tạo ra vỏ trứng trong tiến trình của chu kỳ đẻ trứng. Gà mái có khả năng dự trữ canxi hạn chế, chủ yếu ở xương có tủy và ở dạng hạt trong mề, một khi canxi trong thức ăn đã đi qua diều. Điều này có nghĩa là nguồn, chất lượng và kích thước hạt của canxi trong khẩu phần đều đóng một vai trò quan trọng trong sự khả dụng, cùng với tỷ lệ canxi và phospho và ảnh hưởng của một số độc tố nấm mốc đối với sự chuyển hóa vitamin D, một yếu tố chính trong sản xuất các protein liên kết với canxi trong máu.

Các nguồn canxi

Nguồn canxi chủ yếu cho gà là đá vôi, một loại đá trầm tích hình thành từ calcite và aragonite từ các sinh vật biển sống cách đây nhiều triệu năm. Đá vôi chủ yếu là carbonat canxi, nhưng không phải tất cả các loại đá vôi đều như nhau, chất lượng và độ tinh khiết có thể thay đổi đáng kể: nó có thể bị nhiễm các muối magiê, silica, đất sét và kim loại nặng. Đá vôi nhóm Dolomitic là một nguồn canxi rẻ tiền, nhưng nên tránh vì nó chứa hàm lượng magiê cao, có thể kết hợp với canxi trong ruột, khiến nó không hữu dụng cho gia cầm.

Ở một số khu vực địa lý nơi tìm thấy trầm tích như đá cẩm thạch, việc cắt gọt từ ngành công nghiệp đá cẩm thạch được coi là một nguồn canxi. Đá cẩm thạch là một loại đá biến chất, do đó nó đã chịu nhiệt độ và áp suất cao, dẫn đến cấu trúc tinh thể cứng hơn. Nó có thể được hình thành từ đá vôi calcitic hoặc dolomitic và thường được tạo thành từ carbonat canxi magiê (CaMg (CO₃)) chứ không phải là carbonat canxi. Hàm lượng magiê cao, cùng với độ cứng tăng lên, khiến nó không phù hợp cho sản xuất vỏ trứng.

Vỏ hàu hóa thạch đôi khi cũng được sử dụng, nhưng nó chủ yếu được sử dụng như một chất bổ sung chứ không phải là một nguồn chính do chi phí của nó. Nó có thể là một nguồn canxi chất lượng tốt và hữu dụng cho gia cầm.

Độ lớn của tiểu phần hạt

Hầu hết sự phát triển vỏ trứng xảy ra vào ban đêm, và gia cầm bị hạn chế các lựa chọn dự trữ canxi. Vào đầu ngày, gà sẽ ăn một cách tự nhiên khoảng 30% tỷ lệ hàng ngày của chúng và khoảng 60% trong 3 giờ sáng ban ngày cuối cùng. Thời gian còn lại, gia cầm sẽ chọn bất cứ thứ gì nó thấy hấp dẫn. Lượng ăn vào tăng vào cuối ngày để đảm bảo mức năng lượng đủ để duy trì cho gia cầm qua đêm. Bằng sự lựa chọn, gia cầm sẽ tiêu thụ nhiều năng lượng hơn vào buổi chiều, và mái đẻ các cũng sẽ chọn các tiểu phần hạt canxi vào thời điểm này để đáp ứng nhu cầu chính về canxi trong giai đoạn hình thành vỏ trứng. Chen và Coon (1990) đã chứng minh rằng các đặc tính vỏ trứng được cải thiện khi kích thước hạt canxi tăng lên.

Với khả năng dự trữ hạn chế, kích thước hạt là vô cùng quan trọng, vì các tiểu phần hạt có đường kính dưới 1 mm có thể đi qua khỏi mề dẫn vào tá tràng với dưỡng trấp mà nó được đệm bởi muối mật, làm tăng độ pH (Rao và Roland, 1989 ). Một khi điều này xảy ra, sẽ không có thêm canxi hữu dụng nào từ các tiểu phần hạt này. Đây là lý do tại sao hầu hết các công ty nhân giống khuyên dùng hỗn hợp các kích cỡ hạt, với một phần ba được cung cấp dưới dạng bột để cung cấp canxi trong xương có tủy vào buổi sáng và hai phần ba ở các tiểu hạt có đường kính 2-4 mm được lưu trữ trong mề và được sử dụng để nghiền các tiểu phần thức ăn và được sử dụng để sản xuất vỏ trứng.

Canxi được lưu trữ trong xương dưới dạng phosphat canxi. Vì vậy, nếu chỉ sử dụng đá vôi dạng bột, nồng độ phospho trong khẩu phần phải được tăng lên để bù lại lượng phospho bị mất do sự bài tiết khi canxi được chuyên chở từ các xương có tủy.

Tỷ lệ canxi / phospho

Khi một mái đẻ được đưa vào sản xuất vào khoảng 18 tuần tuổi, nó chỉ nặng bằng hai phần ba trọng lượng cơ thể trưởng thành của nó theo dự kiến, vì vậy nó vẫn cần sinh trưởng trong giai đoạn đẻ đầu. Tuy nhiên, phospho dư thừa được biết là có ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng vỏ trứng bằng việc liên kết với canxi trong ruột, khiến nó không hữu dụng. Đây là lý do tại sao tỷ lệ canxi và phospho trong khẩu phần được điều chỉnh trong chu kỳ đẻ, bắt đầu với tỷ lệ xấp xỉ 7:1 trong khi gia cầm đang sinh trưởng và giảm xuống 10:1 khi đạt được thể trọng cuối cùng. Điều này đạt được một phần bằng cách giảm mức phospho trong khẩu phần, nhưng cũng bằng cách tăng mức canxi từ 3,7-4,2% khi độ lớn của trứng và trọng lượng vỏ tăng lên.

Độc tố nấm mốc và chất lượng vỏ trứng

Tầm quan trọng của vitamin D đối với chất lượng vỏ trứng hoàn toàn được biết rõ, tuy nhiên người ta ít hiểu về cách các độc tố nấm mốc có thể ảnh hưởng đến vitamin D. Vitamin D hoặc cholecalciferol, được chuyển đổi thành 25-hydroxycholecalciferol trong các microsome của gan trước khi được chuyển đổi thành 1,25 -dihydroxycholecalciferol trong ty thể của thận (DeLuca, 2008). Hợp chất này lưu thông trong ruột và các xương, và nó rất quan trọng trong việc chuyên chở canxi từ ruột đến xương và tuyến vỏ. 25-hydroxycholecalciferol có hoạt tính sinh học chọn lọc và thúc đẩy sự hấp thu các ion canxi trong ruột non (Phandis & Nemere, 2003).

Aflatoxin và ochratoxin A tấn công tương ứng vào gan và thận, làm giảm chuyển hóa vitamin D. Điều này làm giảm khả năng hấp thụ canxi của gia cầm từ khẩu phần và chuyên chở nó đến tuyến vỏ và các xương có tủy (Verma, 2006). Zearalenone cũng có liên quan đến việc giảm chất lượng vỏ trứng bằng cách liên kết với canxi để tạo thành một phức hợp trong ruột, làm giảm lượng canxi hữu dụng.

Hình 2. Chuyển hóa vitamin D ở gia cầm.   

     

Các yếu tố khác

Công việc thí nghiệm được thực hiện trên gà thịt của Đại học Free ở Berlin đã chứng minh rằng sự tiêu hóa canxi, phospho và các chất dinh dưỡng khác tăng lên khi đưa các chất chiết thực vật phytogenics vào thức ăn. Những lý do này không được hiểu đầy đủ, nhưng có thể là do cấu trúc và chức năng ruột tốt hơn được duy trì, với sự gia tăng tỷ lệ lông nhung trên hốc ruột đã cải thiện sự hấp thu. Các thử nghiệm trên thực địa cũng đã chứng minh rằng chất lượng vỏ trứng có thể được duy trì hoặc cải thiện bằng cách đưa vào các sản phẩm chất chiết thực vật của Biomin làm giảm được tỷ lệ trứng có chất lượng loại hai, ở trong cả hai đàn nhân giống và mái đẻ thương phẩm.

Kết luận

Sự gia tăng liên tục năng suất của đàn cha mẹ và đàn mái thương phẩm làm tăng áp lực lên gia cầm để chuyển hóa và huy động nhiều canxi hơn từ ruột đến xương và tử cung để sản xuất vỏ trứng. Do đó, các nhà sản xuất phải chú ý nhiều hơn đến việc quản lý gia cầm để tối đa hóa tiềm năng di truyền được cung cấp bởi các công ty nhân giống.

PGS Bùi Xuân Mến, Trung tâm RD Vemedim, lược dịch tóm tắt.

Tài liệu tham khảo

Robertson A (2019) Factors affecting eggshell quality.

https://www.biomin.net/en/blog-posts/factors-affecting-eggshell-quality/#utm_term=Read%20now&utm_campaign=7%20items%20covering%20science%2C%20practical%20tips%20and%20news%20related%20to%20animal%20health%20and%20nutrition%20for%20your%20operation.&utm_content=email&utm_source=Act-On+Software&utm_medium=email

Vietnamese